Trần
Kiêm Đoàn
HẠT GIỐNG LÀNG
MAI
Hạt giống
Làng Mai gieo trên đất người đâm chồi nẩy lộc.
Nhưng gieo trên đất nhà lại bị lung lay hay bị
trốc gốc nhổ đi. Tại sao Việt Nam lại trở thành
vùng đất khó cho hạt giống lành như thế?!
Hạt giống
Làng Mai ngỡ như sinh ra do thầy Nhất Hạnh.
Nhưng thật ra, đó là hạt giống của muôn phương.
Hạt giống chung của những tấm ḷng có hồn, có
phách. Hồn để chiêm nghiệm và phách để đối mặt
giữa cuộc đời.
Một giọt nước
c̣n mang nguyên thể của đại dương. Mỗi hạt bụi
trần vẫn ẩn chứa bản chất của ba ngh́n thế giới.
Những sự dính mắc và tách rời tác động lên nhau,
liên tu bất tận; từng khắc, từng sao như ta với
người, như h́nh với bóng. Nguyên sinh của hạt
giống Làng Mai không phải từ đấng sáng thế, từ
thiền sư Nhất Hạnh, từ ta hay người, từ một cơi
hữu sinh hay vô sinh nào đó. Nó là hợp thể của
muôn vàn tố chất biến dịch không ngừng và bỗng
một khắc hay một thời nào đó tạm biến thành hạt
giống Làng Mai.
Một hạt giống
mang biểu tượng Làng Mai có duyên với thầy Nhất
Hạnh được gieo trồng và tưới tẩm tại Pháp từ năm
1982. Mấy chục năm sau, hạt giống Làng Mai đă
trở thành một ngành tu riêng có bản sắc và đầy
sức sống trong đời sống tâm linh.
Đầu tháng 12
năm 2005, thầy Nhất Hạnh về nước với 100 tăng
thân Làng Mai đă làm dậy lên luồng dư luận chống
và ủng hộ từ nhiều phía. Riêng tôi chưa hề được
trực tiếp gặp hay quen biết với thầy Nhất Hạnh,
nhưng mến mộ Thầy qua những tác phẩm văn chương.
Cũng trong
thời kỳ nầy, thầy Đức Nghi sang Làng Mai tu tập
và được ủy thác cho việc xây tu viện Bát Nhă
trên mảnh đất sẵn có của thầy tại Lâm Đồng có
quy mô đủ cho 500 người tu học. Dĩ nhiên là
thầy Đức Nghi được quỹ Làng Mai tài trợ những
khoản tiền xây dựng rất lớn tương xứng với công
tŕnh xây dựng.
Ngày 7 tháng
7 năm 2006, qua công văn số 525-TGCP-PG, ban tôn
giáo chính phủ đă chấp nhận cho tăng ni tu viện
Bát Nhă tu tập theo pháp môn Làng Mai. Sau đó,
gần 400 tu sĩ, hầu hết là trẻ tuổi đă đến tu học
tại đây.
Ngày 10 tháng
9 năm 2008, trưởng ban tôn giáo chính phủ tố cáo
tăng ni Làng Mai vi phạm luật pháp và vài ngày
sau đó th́ công an Lâm Đồng chỉ thị trục xuất
400 tu sĩ Làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhă. Thế
nhưng lệnh trục xuất được hoăn lại khi một phiên
họp khẩn cấp được tổ chức tại Sài G̣n với đầy đủ
đại diện chính quyền các ban ngành liên hệ nhưng
lại không có đại diện Làng Mai. Quyết định đưa
ra là: Tăng ni có thể tiếp tục tu học. Ai chưa
đủ thủ tục giấy tờ th́ bổ túc. Ai gây bất ổn sẽ
bị xử lư. Về tài sản và cơ sở vật chất th́ hai
phía Làng Mai và Bát Nhă tự giải quyết hay nhờ
pháp luật.
Thời gian
tiếp theo, 400 tăng ni vẫn ẩn nhẫn nghiêm tŕ tu
học. Nhưng đến ngày 27, 28 và 29 tháng 6 năm
2009 th́ có khoảng vài trăm người tuổi trẻ, hành
động theo kiểu xă hội đen đến tu viện Bát Nhă,
xông vào đập phá đồ đạc, vứt bỏ đồ ăn và vật
dụng của tu sĩ, khóa cửa ra vào và cúp hết điện
nước. Theo h́nh ảnh và thông tin của các thông
tấn xă nước ngoài, đám người tấn công tu viện
Bát Nhă bằng lời lẽ nhục mạ qua loa phóng thanh
và biểu ngữ “đả đảo Làng Mai… Tu viện hoàn toàn
bị cô lập. Tăng ni lên mạng lưới vi tính kêu
cứu khắp toàn cầu. Thầy Đức Nghi lên tiếng kêu
gọi tăng ni phải rời khỏi tu viện càng sớm càng
tốt.
Trước sự việc
nầy, hẳn nhiên ban Tôn giáo và thầy Đức Nghi đều
hiểu rơ rằng, một khi đă phát nguyện xuất gia,
người tu sĩ đă vứt bỏ lại tất cả mọi tiện nghi
vật chất, nhà cửa, gia đ́nh lại đằng sau. Mái
chùa là nơi duy nhất để một nhà tu nương thân.
Xưa nay, kẻ xuất gia chỉ chuyển chùa chứ không
có trường hợp bị đuổi ra khỏi chùa không nơi trú
ngụ. Đẩy nhà tu ra khỏi mái chùa duy nhất là
một h́nh thức hủy diệt môi trường sinh hoạt của
họ. Các tăng ni không c̣n sự lựa chọn nào hơn
là tiếp tục khiêm nhẫn tu hành dưới áp lực nặng
nề của một hoàn cảnh đầy đe dọa.
Giữa tháng 8
năm 2009, giới thẩm quyền nhà nước Việt Nam xác
nhận là sẽ trục xuất các tăng sinh và giáo thọ
Làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhă sau ngày 2
tháng 9 năm 2009 nếu họ không chịu tự động bỏ
chùa ra đi. Lư do trục xuất được nêu ra là: Các
tu sĩ Làng Mai có những vấn đề “nội bộ bất ổn”
như thầy Đức Nghi với tư cách chủ chùa, từ chối
tiếp tục bảo lănh cho các tăng ni ở lại tu học
trong phạm vi nhà chùa. Lư do trục xuất khác
được nêu lên rằng, nội dung các bài giảng theo
tinh thần thiền sư Nhất Hạnh là “bất hợp pháp”
và không được giáo hội cho phép!
Nguồn tin 400
tăng ni tu viện Bát Nhă bị đuổi ra khỏi chùa đă
làm chấn động môi trường truyền thông đại chúng
ở hải ngoại. Nhiều câu hỏi được đặt ra liên
quan tới vấn đề đâu là nguyên nhân và động cơ
chủ yếu của sự việc xuất hiện tấp nập trên mạng
lưới truyền thông. Những câu hỏi và câu trả lời
mang nặng tính giả định không làm ai thỏa măn.
Tuy nhiên, vai tṛ của thiền sư Nhất Hạnh trong
nội t́nh Làng Mai Bát Nhă và hướng giải quyết
của Thầy như thế nào vẫn là câu hỏi xuất hiện
hàng đầu trong chuỗi thắc mắc, trao đổi và luận
đàm càng ngày càng dồn dập.
Sáng Chủ nhật
(27 tháng 9 năm 2009) tin tăng ni Làng Mai ở tu
viện Bát Nhă bị những toán người bạo động mang
xe và gậy gộc tới cưỡng bức tăng ni lên xe và
vứt ra khỏi chùa. Giữa cảnh ban ngày ban mặt,
các tu sĩ bị những toán người hành hung đánh đập
thô bạo và hốt lên xe trước sự chứng kiến dửng
dưng, gần như đồng lơa của các lực lượng an ninh
và nhân viên công lực. Cảnh bất nhẫn ấy đă làm
dấy lên nhiều câu hỏi và những phản ứng lương
tri sâu xa về vai tṛ chính quyền, giá trị đạo
lư, sự hành xử pháp lư và quyền sống căn bản
nhất của con người là sự an toàn về mạng sống
tại Việt Nam hiện nay.
Tu viện Bát
Nhă .
Courtesy Thư Viện Hoa Sen

Trưa Chủ nhật
cùng ngày, phóng viên Gia Minh của đài Á Châu Tự
Do RFA (Radio Free Asia) đă gọi tôi đang ở
Sacramento, Bắc California cho biết về cuộc trục
xuất đầy bạo động đă diễn ra vài giờ trước đó
tại tu viện Bát Nhă ở Lâm Đồng và yêu cầu được
phỏng vấn. Thật t́nh là tôi rất ngại phát biểu
công khai ư kiến riêng của ḿnh trước hàng thức
giả và đại chúng. Lư do để dè dặt là v́ ḿnh
đang ở một nơi quá cách trở với hiện trường xảy
ra sự cố nên không nắm vững mọi chi tiết thực tế
đang thật sự diễn biến như thế nào. Các tin tức
và dữ kiện đều phải dựa vào môi trường truyền
thông đại chúng. Các bài tường thuật trực tiếp
qua điện thoại về cuộc khủng hoảng Làng Mai Bát
Nhă ghi trên website của RFA, có đoạn như sau:
“Nó đang
đánh mấy thầy, mấy cô. Nó núm (nắm) cổ mấy thầy,
nó kéo ra, nó dộng cổ mấy thầy, nó kéo ra mấy xe.
Em đang
xuống xe. Em đang xuống xe.
Nó đang
đánh mấy thầy mấy cô, tội lắm, chảy máu chảy me
đầy. C̣n Ban Giáo Thọ, quư thầy Pháp Trụ, thầy
Pháp Danh, thầy Pháp Trị th́ bị nó bắt đi đâu
rồi, không biết nữa. C̣n mấy thầy nhỏ th́ nó bắt,
nó đánh, nó dẫn ra ngoài đường đó. Nó bỏ cho một
đám côn đồ đánh mấy thầy, rồi nó chở xe taxi đi
một khúc, 5 người nó bỏ một khúc, 5 người nó bỏ
một khúc, nó không bỏ dồn người một chỗ đâu”. (Lời
cô Khanh qua điện thoại trực tuyến. Phóng viên
Thanh Trúc RFA)… Những tin tức đại loại như thế
từ quê nhà làm cho nhiều người xót xa và thất
vọng về một viễn ảnh hóa giải xung đột giữa
chính trị và tôn giáo.
Vụ
Làng Mai Bát Nhă không phải là một trường hợp
t́nh cờ đột biến. Đây là một diễn tiến kéo dài,
xảy ra từng bước theo tŕnh tự thời gian và kéo
theo sự quan sát, theo dơi rộng răi của người
Việt ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế. Đây
cũng không phải đơn thuần là một sự việc mang
tính nội bộ xung đột giữa Làng Mai và Bát Nhă;
giữa thầy Đức Nghi và tu sĩ theo pháp môn Làng
Mai của thầy Nhất Hạnh; giữa ban tôn giáo nhà
nước và nhóm “dị giáo”. Nhưng đây chính là uy
tín, là bộ mặt, là biểu tượng nói lên bản chất
và bản lĩnh của sự lănh đạo nhà nước Việt Nam
thông qua các thành viên ban bệ như Ban tôn giáo,
Mặt trận Tổ quốc và Giáo hội Phật giáo được
chính quyền ủng hộ. Tính nhân bản trong cách
giải quyết vấn đề nói lên bản chất; và tính tổ
chức trong cách giải quyết vấn đề nói lên bản
lĩnh của thế lực lănh đạo. Đáng tiếc thay, tính
nhân bản và tính tổ chức hầu như đă vắng bóng
trong sự cố Làng Mai Bát Nhă khi sự trục xuất
biến thành cuộc trấn áp và bạo hành.
Trả lời cuộc
phỏng vấn của đài phát thanh Á Châu Tự Do, RFA,
tôi đă nêu lên ba ư chính như sau:
Thứ nhất, là
về mặt pháp lư. Một chính quyền lành mạnh trong
một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có hiến pháp
là phải đem luật pháp làm chỗ dựa. Tôn trọng
luật pháp để bảo vệ người dân là tiêu chí hàng
đầu trong vai tṛ lănh đạo. Tu viện Bát Nhă và
400 tăng ni tu theo pháp môn Làng Mai là cơ sở
vật chất và tổ chức nhân sự hợp pháp được chính
quyền Việt Nam cho phép xây dựng và sinh hoạt.
Khi có hiện tượng được xem là bất thường hay phi
pháp xảy ra trong một tổ chức hợp pháp, vấn đề
cần phải được giải quyết thông qua các cơ chế
luật pháp phân minh và văn hóa như thảo luận,
hội nghị, ṭa án… để xử lư rạch ṛi những sự
chông chênh, sai trái theo luật định. Trường
hợp Làng Mai Bát Nhă, nếu có chăng những biểu
hiện sai lệnh từ phía tăng sinh và giáo thọ theo
quan điểm của chính quyền, tại sao họ không được
phép giải thích và biện minh công khai trước khi
nhận những chỉ thị trục xuất mang tính cách áp
đặt một chiều từ phía giới chức có thẩm quyền?
Thầy Đức Nghi đă nhận tiền Làng Mai (trước sau
gần cả triệu đô la) để xây tu viện Bát Nhă và
quy tụ 400 tăng sinh cùng giáo thọ về tu học
theo pháp môn Làng Mai, Thầy phải có trách nhiệm
pháp lư và lương tâm chức trách về việc làm của
ḿnh. Nếu Thầy nhất định đuổi các tăng ni tu
theo môn phái Làng Mai ra khỏi ngôi chùa được
xây dựng bằng tiền bạc của Làng Mai mà không có
một phương án đền bù thay thế là một h́nh thức
chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp. Trường hợp
công dân bị cưỡng đoạt tài sản công khai và bạo
ngược, cơ quan luật pháp nhà nước hành động như
thế nào để bảo vệ kẻ thế cô oan ức?
Thứ hai, là
về mặt tâm lư. Chất keo gắn kết có hiệu quả lớn
nhất giữa hai phía lănh đạo và quần chúng là
niềm tin và sự tôn trọng lẫn nhau. Sự việc các
tăng ni Bát Nhă bị những thành phần xă hội đen
hành hung thô bạo theo kiểu giang hồ, gầm cầu,
hè phố như đă xảy ra trước sự chứng kiến không
can thiệp của lực lượng an ninh công cộng đă hạ
thấp giá trị vai tṛ lănh đạo của giới có thẩm
quyền. Xưa nay trong tiến tŕnh xă hội từ dă
man đến văn minh, cách giải quyết xung đột bằng
hành động thảo khấu của xă hội đen là một hạ
sách của những thế lực bị đặt ra ngoài ṿng pháp
luật. Trước ống kính của dư luận quốc tế, một
phương thức giải quyết như thế sẽ bị phê phán và
liệt ngang hàng với hành động ném đá dị giáo
thời Trung cổ. Ai là kẻ chịu trách nhiệm trực
tiếp về việc hạ thấp vai tṛ lănh đạo, gây tâm
lư bi phẫn và làm mất niềm tin vào khả năng bảo
vệ an sinh xă hội cho người dân trong trường hợp
Làng Mai Bát Nhă ở Lâm Đồng?
Thứ ba, là về
mặt đạo lư. Đạo Phật là một tôn giáo an ḥa,
bất bạo động. Ban tôn giáo đă thừa hiểu là đạo
Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn làm phương
tiện. Nay thêm một pháp môn Làng Mai hiện diện
trên đất nước là một sự đóng góp khiêm tốn làm
phong phú thêm cho lĩnh vực tâm linh trong đời
sống văn hóa Việt Nam. Sự giới hạn mang tính
chất “bế quan tỏa cảng” tinh thần là đi ngược
lại quyền lợi chung của dân tộc trong giai đoạn
chính quyền và cả nước đang cố hội nhập vào thị
trường kinh tế và văn hóa toàn cầu. Ai là người
chịu trách nhiệm nghiên cứu và tham khảo nghiêm
túc những trào lưu tư tưởng và tâm linh mới từ
xă hội phương Tây và bên ngoài đang du nhập
thường xuyên và mạnh mẽ vào xă hội Việt Nam qua
môi trường truyền thông đại chúng quá ồ ạt mở
đầu thế kỷ 21 nầy. Trước khi chấp nhận hay bác
bỏ sự hiện diện của môn phái Làng Mai du nhập
trên đất nước ḿnh, cần phải có sự đánh giá đúng
đắn nội dung và tác dụng của hạt giống Làng Mai
trong hoàn cảnh đất nước như hiện nay. Chấp
nhận hay bác bỏ một khuynh hướng tôn giáo mà chỉ
dựa trên cảm tính nhất thời và ư kiến chủ quan
dẫu xuất phát từ cá nhân hay tập thể đều là biên
kiến, bất công.
Đạo Phật Việt
Nam là một sự kết hợp nhu ḥa giữa nhiều khuynh
hướng và bộ phái. Bước vào các chùa chiền tự
viện Việt Nam trong cũng như ngoài nước, biên
giới phân biệt giữa thiền tông, tịnh độ tông và
mật tông hầu như biến mất. Xa hơn thế nữa, có
dịp văng cảnh chùa chiền xứ Bắc, thiền khách sẽ
thấy rơ là tôn giáo dân gian ḥa quyện với Phật
giáo một cách tự nhiên. Những dao động giới hạn,
bề mặt và nhất thời qua một số sinh hoạt Phật
giáo trong những năm qua chỉ làm nghèo nguồn
suối tâm linh cho những cá nhân hay nhóm phái
dấn thân vọng động mà thôi. Trong lúc Phật giáo
nói chung vẫn êm xuôi theo ḍng chảy thái ḥa và
an lạc thường hằng. Ước mong sẽ không có ai
quên sự khác nhau giữa nhất thời và vĩnh cửu.
Trần Kiêm
Đoàn
Sacramento,
Cali. Vào Thu 2009
tôn giáo - phật giáo