THẾ ĐỘNG CỦA VĂN
HÓA
Trần
Kiêm Đoàn
Khi nói đến “thế động”
người ta sẽ liên tưởng đến phía đối nghịch: Đó là “thế tĩnh”.
Động hay tĩnh trong văn hóa hay trong tư tưởng không hẳn là
hai trạng huống đối nghịch ; trái lại, đó là hai “thế” bổ sung
cho nhau tùy theo thời điểm, thế đứng và phương pháp luận của
người t́m hiểu, nghiên cứu về văn hóa. Như khi nói đến văn hóa
Việt Nam, phần lớn những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ đàn anh
thường nói lên một khái niệm ước lệ như “Nước Việt ta có bốn
ngh́n năm văn hiến”. Đó là cách nói ở “thế tĩnh”. Coi văn hóa
là một gia tài quá khứ, mang một giá trị tương trưng và mơ hồ
cần được chưng trong tủ kiếng hay cất kỹ trong cái tráp sơn
son thếp vàng của ḷng tự hào dân tộc. Thực tế, văn hóa
chính là cuộc sống đầy sinh động, là một tổng thể của những
giá trị vật chất lẫn tinh thần của một xă hội, một quần thể
hay một dân tộc, kéo dài từ quá khứ cho đến hiện tại và đang
theo đà tiến hóa của nhân loại để bước vào tương lai. Nghiên
cứu văn hóa, v́ thế, cần ở vào thế động. Cho dù t́m hiểu một
nền văn hóa đă ra đời và ch́m sâu trong quá khứ như khi t́m
hiểu về nền văn hóa Đông Sơn, Hy Lạp, La Mă, Hằng Hà, Aán Hà…
chẳng hạn cũng cần đặt trong “thế động” của sự tương quan về
nhiều mặt trong bối cảnh thời bấy giờ.
1 . Khái niệm
tương đối về văn hóa.
Văn hóa là một từ Hán Việt. Người
Trung Hoa dùng từ “văn hóa” với một khái niệm tương đương với
từ “culture” của Tây Phương. Nhưng có sư khác biệt giữa Đông
và Tây là khái niệm văn hóa của người Trung Hoa tập trung trên
khía cạnh đạo lư và xă hội. Họ giới hạn “văn hóa” trong tác
dụng tích cực (văn: là vẻ đẹp, vẻ sáng; hóa: là hành động biến
đổi và đạt tới). Trong khi đó khái niệm văn hóa của Tây phương
là một tổng thể bao gồm cả cái đẹp, cái xấu; cả mặt tích cực
và mặt tiêu cực trong lịch sử đời sống của con người. Bởi vậy,
với người Tây phương, sự sống đồng thời cũng là sự hiện sinh
về “culture”. Đông phương, theo quan niệm của Tàu, th́ một nếp
sống “có văn hóa” phải là một kiểu sống có văn minh, tiến bộ,
tốt đẹp. Trong vùng ảnh hưởng quá nặng nề của nếp suy nghĩ
lâu đời “rất Trung Hoa”, Việt Nam chúng ta mặc nhiên chấp nhận
một khái niệm hạn hẹp và khiên cưỡng về thế giới nhân sinh
phong phú gọi là “văn hóa” của Tàu như một tiêu chuẩn căn bản
để nh́n vào và nh́n về đời sống. Chính sự chấp nhận không điều
kiện, không thắc mắc nầy đă làm cho chúng ta trôi giạt sâu vào
“thế tĩnh” của văn hóa. Xếp văn hóa vào hàng những tiêu chuẩn
đạo lư đă ngư trị vùng trời tư tưởng Trung Hoa (và lấn chiếm
hết nguồn tư tưởng truyền thống Việt Nam) như tam cương ngũ
thường, tam ṭng tứ đức… là một cách hệ thống hóa và dán những
nhăn hiệu đă có sẵn cho từng vùng của đời sống chứ không phải
là khai phá, truy t́m giá trị đích thực để phát huy văn hóa
dân tộc. Chính “thế tĩnh” của văn hóa đă làm cho những người
quan tâm đến văn hóa Việt Nam hết sức lúng túng trong nỗ lực
t́m kiếm nội dung của một hệ thống giá trị Việt Nam thuần
nhất, một tập đại thành tư tưởng Việt Nam độc lập, một ḍng
triết lư Việt Nam (nếu có thể gọi như thế) thuần túy.
Trong một hội nghi trao đổi văn hóa được tổ chức tại đại
học Pacific Lutheran (PLU) ở Tacoma (WA, Mỹ) trong 2 ngày 24
và2 5 tháng 6 năm 2001 vừa qua, một giáo sư tiến sĩ trẻ tuổi
người Việt, anh Trần Hiếu, đă nhiệt t́nh giới thiệu những đặc
tính của con người và văn hóa Việt Nam như : Cần cù, chăm học,
hiếu ḥa, hiếu khách, hiếu thảo, trọng thanh danh, có tinh
thần độc lập, tự cường, yêu gia đ́nh, xóm làng, bằng hữu… Khi
đến phần thảo luận, một câu hỏi chính được đặt ra là: “Những
đặc tính đă được trưng dẫn là đặc tính chung của hầu hết các
dân tộc trên thế giới. Vậy th́ đâu là bản sắc riêng biệt, sự
phát triển tư tưởng độc đáo và lối sống truyền thống trong văn
hóa Việt Nam? Thế nào là một lai lịch (identity) Việt
Nam?” Ngày nay, nước Tàu không c̣n là “Trung Quốc” (như
người Tàu vẫn từng tự xem nước họ la cái “rốn” của thế giới).
Việt Nam kính trọng văn hóa của Trung Hoa, nhưng không thể xem
họ là chuẩn mực cho đời sống tư tưởng và xă hội của ḿnh. V́
thế, khi bàn về “văn hóa”, chúng ta vẫn phải dùng một từ ngữ
đă quá quen thuộc và thiết thân với ngôn ngữ Việt Nam qua
nhiều thế hệ. Về h́nh thức, cứ tạm quy ước cho đó là một tên
gọi, một cách gọi. Nhưng về khái niệm, cần trả nội dung “văn
hóa về cho văn hóa”. Vậy, văn hóa là ǵ? Đó có thể là
một câu hỏi quá muộn màng và nhàm chán liên quan đến một đề
tài, một lĩnh vực quá xưa cũ và xuất hiện thường xuyên trên
cửa miệng của mọi người. Thế nhưng, cho đến phút này vẫn chưa
có câu trả lời trọn vẹn và dứt khoát. Nghĩa là vẫn chưa có một
định nghĩa về văn hóa ổn định, minh bạch đầy đủ ư nghĩa nhất
được mọi người từ Đông sang Tây chấp nhận. Trong khi tiến sĩ
Sumi Zakura (Nhật) cho rằng văn hóa là “một kho tàng tổng hợp
túi khôn và lối sống của một dân tộc trải qua nhiều thế hệ”
th́ nhà nghiên cứu nhân văn của Tàu là giáo sư KC Chan lại
định nghĩa văn hoá như là một sinh hoạt tinh thần lẫn vật
chất, ở mức độ cao cấp “h́nh nhi thượng” của một nhóm người có
chung ngôn ngữ, chung bối cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế và
xă hội. Tây phương th́ “đa ngôn đa quá” hơn. Từ năm 1952, hai
nhà nhân chủng học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckholn đă
cho xuất bản một danh sách gồm 160 định nghĩa khác nhau về văn
hóa căn cứ trên 8 phạm trù tiêu biểu trong đời sống nhân loại
như: Lịch sử, đạo lư, phong cách, tri thức, thể tài, cấu trúc,
phận sự, tượng trưng. Trong các ngành học về nhân văn ở
châu Mỹ, khi nói đến văn hóa, người ta thường nhắc nhở đến ba
khuôn mặt bàn về văn hóa được trích dẫn nhiều nhất là Matthew
Arnold, Raymond Williams, và Cliffort Geertz. Quan điểm văn
hóa của Arnorld thiên về lư tưởng. Ông ta cho rằng văn hóa là
những ǵ liên quan quan đến cái đẹp, sự thông minh và toàn
hảo: “Văn hóa là sự hiểu biết và thưởng thức tinh tế các nghệ
thuật, tư tưởng ở mức độ cao”. Ngược lại, Williams tranh biện
lại rằng, văn hóa không chỉ là những ǵ cao siêu mà văn hóa
c̣n là những ǵ rất b́nh thường trong cuộc sống. Geertz th́
lại đứng trên quan điểm của dân tộc học để nh́n văn hóa như là
sản phẩm tinh thần lẫn vật chất riêng biệt, độc đáo liên quan
đến từng dân tộc bao gồm “Những ǵ con người nghĩ, những ǵ họ
làm, và những ǵ họ sản xuất”. Nh́n chung, các khái niệm
văn hóa thời danh có thể khác nhau về tiểu tiết và mức độ cao
thấp trong cách nh́n, nhưng về đại thể vẫn có cái “sườn” tượng
h́nh, khả dĩ tạm chấp nhận như dáng trái núi không giống dáng
con sông hay giá trị tinh thần không thể so với gia tài có bao
nhiêu mẫu đất. Đó là một khái niệm tương đối về văn hóa: “Văn
hóa là sự thể hiện tổng hợp đời sống tinh thần lẫn vật chất ở
nhiều mức độ và mang đặc tính riêng của một nhóm người hay một
dân tộc qua nhiều thế hệ”
2- Thế động của văn
hóa
Khi nói đến văn hóa Việt Nam là nói đến đất nước,
con người và lịch sử Việt Nam. V́ xuất phát từ khái niệm văn
hóa mang một nội dung mỹ học theo mô thức “văn là vẻ đẹp, vẻ
sáng...” nên khi nói đến đất nước chỉ có “giàu đẹp, rừng vàng
bể bạc, đất ph́ nhiêu”. Nói đến con người th́ là “con Lạc,
cháu Hồng”. Và nói đến lịch sử th́ “chiến thắng Nguyên Mông
với truyền thống hào hùng của Quang Trung, Lê Lợi”. Là người
Việt Nam, ai mà chẳng tự hào với truyền thống vẻ vang đó.
Nhưng văn hóa đâu phải là một bức tranh cổ động, một khẩu hiệu
tuyên truyền hay một bích chương quảng cáo nhất thời! Nói
về văn hóa Việt Nam mà bỏ quên sự khốn khó truyền đời với đất
lở, đất bồi, đất phèn, đất “đá ong pha nhiều ngấn lệ” của cảnh
đồng chua nước mặn; quên đi thiên tai, hạn hán với những “cơn
nắng cháy da cháy thịt, những cơn mưa héo úa tâm hồn” th́ mới
chỉ thấy được bề mặt hoa gấm của đất nước Việt Nam. Cũng tương
tự như thế, khi nh́n con người và lịch sử Việt Nam mà chỉ thấy
nét thanh lịch, vẻ hào hùng, quên đi lớp người chân lấm tay
bùn, không ngó ngàng tới hơn 60 bộ tộc thiểu số trên rừng –
từng bị cho là “man ri, mọi rợ” – hay lờ đi ách đô hộ của Tàu,
xiềng xích đô hộ của Tây, chiến tranh triền miên – công lư lẫn
phi lư – th́ cũng chỉ mới nói đến Việt Nam bằng một mặc cảm
tâm lư nhằm thỏa măn tự ái dân tộc hơn là tinh thần khách quan
nghiên cứu văn hóa. Thậm chí văn hóa đă bị nh́n qua dáng vẻ
đơn thuần của học vấn, thẩm mỹ hay tư cách. Ví dụ như “đo
tŕnh độ văn hóa” bằng tŕnh độ học vấn (Tiểu, Trung, Đại học)
hoặc khen chê “xử sự thiếu/có văn hóa”! Trở lại với khái
niệm văn hóa vừa nêu trên, muốn nhận chân, t́m hiểu hay nghiên
cứu văn hóa của một dân tộc cần phải đưa văn hóa trở về “thế
động”. Văn hóa phải được đặt trên bánh xe tiến hóa đang chuyển
ḿnh từ quá khứ, qua hiện tại, đến tương lai. Văn hóa là ḍng
đời sống trôi chảy luân lưu. Sự lụi tàn của một nền văn hóa
nầy, vô h́nh chung, trực tiếp hay gián tiếp, sẽ là thửa đất
nẩy mầm cho một nền văn hóa khác. Nền văn hóa thái cổ Việt Nam
như Bắc Sơn, Hoà B́nh, Đông Sơn và sự phát triển của nền văn
hóa lưu vực sông Hồng về sau tưởng chừng như riêng rẽ và đứt
đọan nhưng vẫn có một sự tồn tục lưu truyền của hành tŕnh văn
hóa Việt Nam về phương Đông và phương Nam. Văn hóa thường
xuất hiện dưới ba dạng: Thuần nhất, kết hợp, phân vùng và đa
chủng. Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng thường đuợc
coi là nơi tiêu biểu cho những nền văn hoá dân tộc thuần nhất
v́ nền văn hóa quốc gia ít bị pha trộn, tác động hay phân hóa
bởi những nguồn văn hóa khác. Nền văn hóa kết hợp là một nền
văn hóa mất dần bản sắc nguyên thủy để pha trộn với những
nguồn văn hóa mới như trường hợp Phi Luật Tân, Hạ Uy Di sau
khi tiếp cận với văn hóa Tây phương. Trong nền văn hóa chung
của một nước hay một địa phương rộng lớn, có những vùng văn
hóa, ḍng văn hóa, nhóm văn hóa hay cụm văn hóa
(subculture)... thường là một h́nh thái sinh hoạt có phong
cách riêng, có cách suy nghĩ và hệ thống giá trị riêng. Như ở
Mỹ có những cụm văn hóa của giới đồng tính luyến ái, giới bụi
đời vô gia cư, giới siêu sao nổi tiếng, giới cựu chiến binh...
Hay như ở Canada có vùng văn hóa nói tiếng Pháp, vùng văn hóa
nói tiếng Anh. Trong trường hợp người di dân như các nhóm sắc
tộc ở Mỹ, Úc, Canada... th́ họ c̣n có chung tiếng nói, nguồn
gốc, lịch sử và lối sống c̣n mang nặng bản sắc của đất nước
gốc. Họ hợp thành những nhóm văn hoá chủng tộc nhỏ trong ḷng
một nền văn hóa lớn. Như văn hoá Mỹ hiện nay là một nền văn
hóa đa chủng, có hơn 160 nền văn hóa chủng tộc nhỏ trong ḷng
văn hóa đại thể của Hoa Kỳ. Khái niệm “văn hóa xé nhỏ”
thành những ḍng văn hóa hay cụm văn hóa... c̣n hoàn toàn xa
lạđối với một đất nước được coi là thuần chủng như Việt Nam.
V́ vậy, một số các nhà nghiên cứu văn hóa ở quê nhà thường bị
“dị ứng” với những khái niệm văn hóa có vẻ hơi “chướng” của
một số các nhà xă hội học phương Tây. Hy vọng rằng, với thời
gian và điều kiện kinh tế, xă hội mở rộng, mảnh đất chung của
khái niệm văn hóa sẽ trở nên gần gũi và thoáng đạt hơn trong
một tương lai không xa.
3. Sự hội nhập văn hóa
Bước vào thế kỷ 21, dân tộc Việt Nam trong và ngoài
nước đang đứng trước một viễn ảnh đầy thử thách của một khúc
quanh văn hóa. Một nền văn hóa Việt tương đối thuần nhất, trôi
thuận chiều theo ḍng lịch sử dân tộc trong bao nhiêu ngh́n
năm đang chuyển động. Ở quê nhà, sau cuộc chiến dài 30 năm là
thời kỳ đất nước đổi thay dưới một chế độ mới với phương thức
lănh đạo, triết lư chính trị và hệ tư tưởng hoàn toàn khác
biệt. Đồng thời, sự thành tựu vượt bực của khoa học kỹ thuật
của nhân loại bên cạnh sự phát triển sốt dẻo của nền kinh tế
thị trường đă làm cho thế giới nhỏ lại và các dân tộc với nền
văn hóa khác biệt có dịp tiếp cận với nhau dễ dàng và thường
xuyên hơn. Những yếu tính và yếu tố cấu tạo nền văn hóa dân
tộc sẽ không tránh khỏi luật đào thải hay hỗ tương ảnh hưởng.
Nếu thử cứ mỗi 5 năm về thăm quê hương một lần, người ta
sẽ rất dễ dàng nhận ra sự thay đổi trong nếp suy nghĩ, trong
cung cách sống, trong kỹ thuật diễn đạt và cảm quan nghệ thuật
của người trong nước, nhất là lớp người trẻ tuổi sinh sau
1975. Và người trong nước lại nh́n thấy anh em, bà con, bạn bè
của ḿnh dường như đăbị “Tây hóa, Mỹ hóa” sau một thời gian
sống xa quê có dịp trở về cố hương thăm lại quê nhà. Sự thay
đổi về cung cách văn hóa là một tiến tŕnh khách quan và tất
yếu, vượt lên trên và tràn ra ngoài những quy ước về chính trị
và xă hội. Đối với người Việt ở hải ngoại, nhất là ở Mỹ th́
sự thay đổi về văn hóa là một quá tŕnh hội nhập
(integration), đồng hoá (assimilation) và biến thái văn hóa
(acculturation). Có thể nói đây là một sự chuyển ḿnh tận gốc
rễ của cuộc sống để tồn tại trong một xă hội mới. Sự chuyển
ḿnh có khi tự nhiên và êm xuôi; nhưng cũng lắm lúc đầy gian
nan và đau xót. Không thiếu những trường hợp một gia đ́nh êm
ấm dần dần bị phân ly v́ mức độ hội nhập và biến thái văn hóa
khác nhau của mỗi thành viên trong gia đ́nh. Sự xung đột giữa
hai thế hệ già và trẻ (Intergenerational conflicts), giữa vợ
và chồng (Marital conflicts) thường dẫn đến sự đổ vỡ của gia
đ́nh. Tốc độ hội nhập vào khung cảnh văn hóa mới rất khác nhau
và phần lớn tùy thuộc vào tuổi tác, bản chất, học vấn, kinh
nghiệm của từng cá nhân. Tuy nhiên, nh́n chung theo thống kê
của Viện nghiên cứu văn hóa The East-West Review (CA., IV,
2001) th́ sự hội nhập văn hóa của người di dân Việt Nam vào xă
hội Hoa Kỳ được ghi nhận như sau:
Đối tượng Độ
tuổi T* Tỷ số**
Nam Lăo niên Trên 60 15 5% Trung
niên 30 -50 8 12% Thanh niên 18 - 25 4 12% Thiếu niên
Dưới 15 2- 18% Lăo niên Trên 60 13 9% Nữ Trung niên 30 –
50 6 13% Thanh niên 18 -25 4 12% Thiếu niên Dưới 15 2-
19% * Thời gian tính bằng năm trung b́nh để hội nhập vào
văn hóa Mỹ. (2-) = Ít hơn hai năm. ** Phần trăm trên tổng
số ngườiViệt Nam nhập cư vào đất Mỹ.
Bảng thống kê tuy
chỉ là mới là một cuộc khảo sát giới hạn, nhưng phản ánh được
một phần mức độ khác nhau quá lớn giữa hai thế hệ già và trẻ
trong quá tŕnh hội nhập vào một nền văn hóa mới. Tuổi thiếu
niên chỉ cần một khoảng thời gian dưới 2 năm để hội nhập,
trong khi tuổi già phải cần đến 15 năm. Ngoài ra, vai tṛ giới
tính cũng thay đổi. Người đàn ông không c̣n ở vị trí “thống
lĩnh – nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” so với phụ nữ trong
tốc độ hội nhập. Người đàn bà Việt Nam với bản chất chịu
thương chịu khó, mềm dẽo và nhạy bén thường hội nhập nhanh hơn
và có cơ hội thành công cao hơn nam giới trong xă hội Tây
phương. Sự thay đổi về tác dụng của vai tṛ giới tính nầy sẽ
có một ảnh hưởng rất lớn về lâu, về dài trong sự chuyển biến
của văn hóa Việt Nam tương lai. Sự hội nhập, đồng hóa hay
ảnh hưởng văn hóa diễn ra như thế nào? Trước khi t́m lời
giải đáp cho câu hỏi nầy, cũng nên xác định về “thái độ văn
hóa”. Đây là một thái độ phân biệt tự nhiên giữa hai thế giới
văn hóa: “Của ta” và “của người”. Hai thái độ truyền thống
– Bảo thủ và cấp tiến – gần như tương phản: (1) “Ta về ta tắm
ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” và (2) “Ở nhà nhất mẹ
nh́ con. Ra đường có kẻ săn gịn hơn ta” sẽ có tác dụng như
thế nào giữa một thế giới đang có khuynh hướng Toàn cầu hóa xă
hội con người. Với tư thế một nhóm người, một cộng đồng
hay một dân tộc tự hào với truyền thống văn hoá dân tộc lâu
đời, chúng ta tự hỏi rằng, trước sự chuyển biến và tác động hỗ
tương của xu hướng biến chuyển văn hóa toàn cầu, chúng ta sẽ
chọn lựa một thái độ như thế nào khi phải tiếp cận với một nền
văn hóa mới, có thế lực rộng khắp và thuộc về khối đa số? Để
có một khái niệm tổng quát sơ khởi, xin theo dơi bảng phân
tích sau đây:
Có đáng duy tŕ lai lịch nguồn gốc và văn
hóa của chúng ta hay không?
Có đáng duy tŕ mối quan hệ
tích cực giữa chúng ta và họ hay không? CÓ KHÔNG CÓ Hội
nhập Đồng hóa KHÔNG Cô lập Buông xuôi
Phản ứng trực
tiếp có khả năng đưa đến 4 thái độ: Hội nhập, đồng hóa, cô lập
và buông xuôi. Thực tế hoàn cảnh của người Việt định cư tại
nước ngoài và phản ứng của giới trẻ trong nước trước những
luồng sóng văn hóa mới trong ṿng gần 30 năm qua đă chứng minh
rằng, sự hội nhập văn hóa “biết ḿnh biết người” là một phản
ứng có ư thức thường mang đến những kết quả tích cực nhất. Nếu
chỉ biết ḿnh mà không biết người sẽ đưa đến t́nh trạng cô lập
văn hóa; hay ngược lại, chạy theo người mà chẳng giữ được ḿnh
th́ sẽ bị đồng hóa. Trước một thực tiễn đời sống mà văn hóa
đang ở trong thế động, luân lưu và biến chuyển không ngừng th́
sự đồng hóa, cô lập và buông xuôi về văn hóa đồng nghĩa với
thái độ tự phủ nhận hay loại bỏ chính ḿnh. Đă có những nền
văn minh, văn hóa cổ đại một thời vàng son của nhân loại đă bị
mất đi không c̣n dấu vết v́ thiếu sự tồn tục và kế thừa.
Hết nh́n “ta” lại qua nh́n “người”. Người ở đây chính
là đối tượng văn hóa rộng lớn hơn mà những ḍng văn hóa nhỏ có
khả năng hội nhập. Như khi các nhóm di dân vào đất Mỹ th́ văn
hóa Mỹ đương nhiên trở thành nguồn chính (Mainstream). V́ vậy,
trong ngôn từ chính thức, người Mỹ luôn luôn xác định “gốc” và
“ngọn”. Như trường hợp người Việt qua định cư ở Mỹ sau 5 năm,
đủ điều kiện lưu trú để trở thành công dân Mỹ th́ sẽ là “Người
Mỹ gốc Việt” (Vietnamese American). Thái độ văn hóa của các
nước dang tay ra đón người nhập cư dù là ở Mỹ, Úc, Canada,
Tây, Tàu, Nhật, Anh... bao giờ cũng trịch thượng và đầy vẻ thi
ân. Thử trưng dẫn trường hợp tiêu biểu bằng cách nh́n lại
lịch sử “Thái độ văn hóa” của Mỹ chẳng hạn, sẽ thấy ngay điều
đó. Đối với làn sóng người da đen từ Phi Châu nhập cư đầu
tiên vào châu Mỹ trong thế kỷ thứ 16 với thân phận người nô lệ
th́ thái độ văn hóa của người Mỹ da trắng đối với họ là “Tuân
giáo” (Conformity). Dân nhập cư phải “cải văn hóa” như cải
đạo. Liên tiếp những thế kỷ sau, luồng sóng nhập cư càng ngày
càng đông, màu sắc văn hóa càng muôn hồng ngàn tía. Để phù hợp
với thực trạng xă hội, thái độ văn hóa của người Mỹ bản xứ đổi
qua một khái niệm “lăng mạn hơn” bằng lư thuyết “Melting Pot”.
Nghĩa là họ cho rằng mọi đặc tính và h́nh thái văn hóa ngọai
lai mang vào Mỹ se ơbị trộn lại với nhau cùng với văn hóa Mỹ
trong một “Nồi súp de văn hóa nóng chảy”. Phải cần cả trăm năm
sau người ta mới nhận ra rằng, cái nồi Melting Pot đó đặt hoài
trên ḷ bát quái của văn hoá mà không bao giờ chịu sôi lên để
nóng chảy. Thực tế chỉ có một nền “Đa văn hóa” (Cultural
pluralism) vẫn tồn tại và trơ gan cùng tuế nguyệt. Do đó,
người ta phải “xuống cấp” cho giả thuyết sáp nhập văn hóa bằng
cách dùng h́nh ảnh của bức khảm (Mosaic) hay là dĩa xà lách
(Salad bowl) để h́nh tượng hóa một nền văn hóa đa chủng của xă
hội Hoa Kỳ hiện nay. Dùng văn hóa Mỹ như là một trường hợp
nghiên cứu để minh họa một bức tranh văn hóa rất có khả năng
diễn ra sau nầy khắp toàn cầu mà Việt Nam có thể là một thành
tố trong đó. 4. Thay lơiø kết luận
Trong lănh vực
tâm lư, xă hội và văn hóa..., có phải chăng v́ xuất phát từ mô
thức tổ chức đời sống trên căn bản đơn vị làng xă và đại gia
đ́nh nên người Việt có khuynh hướng coi việc bảo tồn rất gần
với bảo thủ. Sự b́nh phẩm căn cứ trên hiện tượng hơn là phân
tích rốt ráo và nghiêm túc bản chất khá phổ biến. V́ vậy, khi
có hiện tượng hội nhập quá nhanh hay tŕ trệ trước một trào
lưu văn hoá mới, thường bị chê trách một cách đầy cảm tính và
chủ quan bằng những lời phê phán, đại khái như “Lai căng, mất
gốc” hay “Chậm tiến, lạc hậu”! Hiện trạng nầy tự nó đă nói lên
được rằng người Việt tự hào với văn hóa truyền thống của ḿnh
và ít sẵn sàng để thay đổi hay hội nhập văn hóa theo trào lưu
mới. Thái độ khép kín văn hóa trong quá khứ có tác dụng vừa
tiêu cực vừa tích cực. Tiêu cực v́ rất dễ dẫn đến thái độ tự
cô lập văn hóa. Tích cực là có thể đương đầu để tồn tại trước
sự chinh phục vũ băo của các thế lực “Phát xít văn hoá” hay
“Sô Vanh mẫu quốc văn hóa” như sự đô hộ và âm mưu nô lệ văn
hóa của Tàu lẫn Tây trong lịch sử Việt Nam thơiø xa xưa vàcận
đại. Tuy nhiên, thực tiễn và kinh nghiệm của khối người
Việt ở nước ngoài trong gần 30 năm qua đă chứng minh rằng,
thái độ “Ta không mê của người, ta không chê của ta” là con
đường trung đạo thích hợp nhất trong một hoàn cảnh văn hoá
mới. Một thái độ tĩnh táo để tiếp thu và học hỏi những cái
hay, cái đẹp của văn hóa người và phát huy những cái tốt, cái
khéo của văn hóa ta đă mang lại những kết quả tích cực nhất
cho cá nhân, gia đ́nh và xă hội. Văn hóa cũng như những
ḍng sông cứ luân lưu chảy măi từ nguồn đến biển. Trong đại
dương văn hóa của nhân loại, có sự đóng góp của những ḍng
sông văn hóa Hồng Hà, Cửu Long, Hằng Hà, Dương Tử, Nile,
Seine, Mississippi... và bao nhiêu suối nguồn thầm lặng khác.
Con người tự hào v́ có văn hóa và văn hóa cũng phải tự hào v́
nó là sản phẩm của con người. Không ai có thể chối bỏ sự hiện
hữu của văn hóa v́ ngay cả sự chối bỏ cũng là một cách biểu
hiện thái độ trong đời sống và chính đời sống đó cũng vô h́nh
chung là một thành phần văn hóa.
Trần Kiêm
Đoàn
văn học nghệ thuật
bút luận
trang chính
|