TRẦN KIÊM ĐOÀN
BỤI PHẤN LẪN BỤI ĐỜI
TRẦN KIÊM ĐOÀN (Ban Việt-Hán)
Thiên hạ có trăm nghề, vạn
nghiệp để sống, nhưng chưa có một nghề nào lại đạt được sự “đoàn kết
nhất trí” cao vời và tuyệt đối như nghề dạy học. Xưa cũng như nay, Đông
cũng như Tây, chủ nghĩa cũng như không chủ nghĩa… chỉ có nghề giáo là
đạt được 3 tiêu chuẩn thống nhất, rằng là: Nghèo nhất, ít tham nhũng
nhất và ít bị ghét nhất. Về mục “nghèo nhất” th́ nghề giáo là vô địch
nhân gian. Này nhé, cụ Khổng ngày xưa là “Vạn thế sư biểu” (làm thầy
dàng trời thiên hạ), có cả vạn môn sinh nhưng suốt đời vất vả nghèo rớt
mồng tơi. Ngày nay, đi mấy ṿng quanh quả địa cầu cũng chưa thấy ông
thầy giáo hay cô giáo có đủ tiền lương mua biệt thự hay tàu bay riêng
cả. Cái mục tham nhũng th́ chọn nghề phải theo nghiệp; không hẳn là bởi
các ông bà giáo vô tư, biết làm thầy nhưng không biết làm tiền, nhưng
nếu có muốn tham nhũng chăng nữa th́ bảng đen, bụi phấn, bục giảng, học
tṛ lấy ǵ mà tham nhũng!
Tôi sinh ra ở một làng quê chuyên nghề làm ruộng. Nghe danh các thầy
giáo có cái chức “giáo” hay “trợ” đứng trước tên như Giáo Cương, Giáo
Phong, Trợ Nghĩa, Trợ Toàn… là đă như thấy người ở “cơi trên” rồi. Cho
nên, cái mơ ước cao nhất của một đưa bé quê ở làng như tôi là sau nầy
được làm ông giáo. Không ngờ, ước mơ “trợ, giáo” thành sự thật!
Được làm ông giáo đứng trên bục giảng các trường trung học Việt Nam cũng
đă vui rồi. Sự t́nh cờ của lịch sử được qua Mỹ, đứng trên bục giảng các
trường đại học Mỹ càng vui hơn.
Ḍng thời gian đi học kéo dài từ lớp vỡ ḷng ở Làng Liễu Cốc Hạ với thầy
Giáo Cương năm 1954 và ngày tŕnh luận án Ph.D ở Nam Cali xứ Mỹ trước
Hội đồng với Giáo sư Roy 46 Sumpter bảo trợ năm 1999, tính nhẩm cũng kéo
dài 45 năm! Ngày xưa làm ông Nghè, ông Cống mới chỉ mười năm đèn sách
(Thập niên đăng hỏa) quư phu nhân như bà Tú Xương đă than: “Lặn lội thân
c̣.. .” nghe quá tội rồi.
Thế nhưng dấu ấn đậm nét nhất của thời đi học vẫn là là những tháng ngày
trên chiếc nôi quê mẹ.
Nếu có chăng một ḍng Văn hóa Huế mang dáng vẻ chiếc nón bài thơ trong
tổng thể Văn hóa Việt Nam – h́nh dung như một bộ trang phục toàn vẹn áo
dài, nón dép, hoa lá điểm trang truyền thống – th́ biểu tượng đậm nét
nhất là ǵ? Núi sông th́ đâu cũng có, cho dẫu là núi Ngự sông Hương. Đền
đài lăng tẩm với h́nh rồng phượng, hoa văn, chữ nghĩa kiểu Tàu th́ chưa
hẳn là thuần tính dân tộc. Tôi vẫn thường nghĩ vẩn vơ như thế từ khi mới
từ làng quê lên Huế học trường Hàm Nghi năm 1959. Ấn tượng “xứ Dinh” của
miền đất “hoàng triều cương thổ” đối với một đứa bé quê như tôi là quá
khứ của lịch sử.
Trường Hàm Nghi tôi học ngày đó vẫn c̣n nguyên là một quần thể kiến trúc
của trường Quốc Tử Giám dành cho con quan, cháu chúa theo học. Buổi
trưa, đám học tṛ làng chúng tôi, như thằng Cảnh, thằng Lân, thằng Phụ…
vẫn thường rủ nhau mang mo cơm bới lên lầu Ngọ Môn bên cạnh trường ăn
trưa và ngủ cho mát. Bác giữ đền coi chúng tôi như con cháu và thân
thiện nói: “Chỗ tụi bay ngồi ngày xưa quan to mới dám đặt chân tới đó!”.
Ôi, nắm cơm độn khoai sắn, gói trong mo cau với muối cà mắm ruốc mà bày
ra trên Ngọ Môn năm cửa, chín lầu một thời vang bóng th́ thật là… lịch
sử! Cái cây “Văn hóa Huế” hiện ra mường tượng trong tôi có gốc là Quốc
Tử Giám, thân là Hàm Nghi, Quốc Học; cành là Đồng Khánh… nhưng phải đợi
đến khi Viện Đại học Huế ra đời vào năm 1957 mới đơm hoa, kết trái. Ở
Huế mà được vào học trường đại học Huế là cả một sự danh giá. Năm 1966,
tôi bước chân vào cái ngơ “danh giá” ấy sau cái kỳ thi tú tài 2… chết
người của chương tŕnh giáo dục nửa Thuộc địa, nửa Cộng ḥa miền Nam.
Tôi bước vào đại học Huế với một sự bơ vơ tận cùng: Đậu tú tài ban B
(Toán) lại vào học Văn khoa!
Số là sau khi thi đậu, được xếp hàng thứ 9, vào chương tŕnh Dự bị đại
học Y khoa Huế, toan làm bác sĩ, nhưng mới hoàn tất thủ tục nhập học th́
gặp ngay hoàn cảnh anh đầu tử trận, mẹ quê già với khu vườn đủ sống đạm
bạc ngày hai bữa, làm sao tôi có thể đủ điều kiện vật chất hỗ trợ để vật
lộn toàn thời gian với chương tŕnh y khoa suốt sáu năm trường?
Tôi phải thực tế hơn để sống c̣n với chương tŕnh đại học 4 năm. Biết
ḿnh là dân ban toán, nhưng tôi kiếm đủ điểm đậu trong các kỳ thi Tú tài
1 và 2 lại nhờ vào các môn thi Quốc văn và Anh văn đạt điểm tối đa vớt
vát nên ghi danh vào học Dự bị Văn khoa là thao trường của các con nhà
văn chương ban C và Hán tự.
Niên khóa 1966-1967, chứng chỉ Văn minh Việt Nam được thành lập như một
tiếng gọi thân thương mà hào hùng của ḷng tự hào dân tộc. Giáo sư là
những học giả và văn nghệ sĩ đă thành danh như các thầy Lê Văn Hảo, Bửu
Kế, Phan Văn Dật, Vĩnh Phối… Từ một học sinh học với tŕnh độ đủ sạch
nước cản ban B của hai năm cuối trung học ở trường Quốc Học, sự đam mê
văn học nghệ thuật của tôi bỗng được hâm nóng trong môi trường Văn khoa.
Trong kỳ thi tuyển vào ban Việt-Hán của trường đại học Sư phạm Huế năm
học 1967-1968, gă ban B (toán) tôi đỗ đầu, trên cả những giai nhân tài
tử ban C (văn chương) toàn cả văn thơ chữ nghĩa đầy bồ!
Vào học chương tŕnh đại học Sư phạm đào tạo giáo sư trung học đệ nhị
cấp 3 năm, các sinh viên dự tuyển bắt buộc phải tốt nghiệp chương tŕnh
dự bị một năm.
Lớp đại học Sư phạm ban Việt-Hán của chúng tôi bắt đầu từ niên khóa
1967-1968 có 12 sinh viên.
Những ngày đại học Sư phạm Huế

Thời đó nghe cái danh xưng “Việt Hán” tôi rầu thúi ruột (!). Tại sao
không gọi là ban Văn chương, ban Văn học Việt Nam, ban Quốc văn… cho nó
trẻ trung, tươi mát, mượt mà với thế giới thi ca đầy viễn mộng mà gọi là
Việt - Hán như một lớp đào tạo ra các cụ đồ Nho áo dài khăn đóng chỉnh
chu ngồi rung 49 đùi uống nước trà nói trạng thế. Cái danh xưng lẩm cẩm
đầy bảo thủ ngày xưa đó bây giờ cũng chẳng khá hơn khi được thay thế
bằng cụm từ “Ngữ văn”. Trong “Văn” đă có “Ngữ” và có “Ngữ” mới có “Văn”
th́ hà cớ chi mà lại xài chữ trùng dụng, tối tăm và kênh kiệu vô ích đến
thế. Trong khi các lớp ngôn ngữ và văn học của thế giới được xác định
ngay một cách phân minh rạch ṛi cả tên Nước, tên Chữ như: Trung Quốc
(Trung Văn), Anh (English), Pháp (Français)… mà Tiếng Việt th́ lại “Ngữ
văn”, mà Ngữ văn của nước nào mới được chứ; hoặc muốn dịch ra ngoại ngữ
th́ dịch như thế nào. Chả lẽ Vietnamese mà lại dịch ra là “Ngữ văn” ư?!
Ngược lại, Ngữ văn, nếu dịch ra tiếng Anh th́ phải dịch thành “Language
and Literature” hóa ra lại càng vô lư và vô nghĩa nữa. Sử dụng nhóm chữ
“Văn Việt” hay “tiếng Việt” (Vietnamese) thay cho Ngữ Văn là thuần Việt,
trong sáng và hợp lư nhất.
Tôi lại lang thang suưt lạc đường rồi. Tôi đang muốn nói đến lớp đào tạo
“Thầy Cô” của chúng tôi. Lớp văn chương nghệ thuật nầy có “Ngũ hổ” là
năm giai nhân, v́ cô nào cũng đẹp, cũng xinh, cũng ngoan hiền… rất Huế
như “con tinh yêu thương vô t́nh chợt gọi” theo kiểu nói của Trịnh Công
Sơn, nên xin liệt kê xếp theo vần ABC cho nó công bằng bác ái: Chi,
Diệp, Giới, Tṛn, Tú.
Chi học một thời gian ngắn th́ ca bài “Từ giă thơ ngây em đi lấy… dzôn”.
Diệp là em út. Cô này dễ thương v́ hay hót như chim sơn ca. Nghe nói
Diệp đang ở miền Nam và hơi hơi mai danh ẩn tích. Giới có vẻ là chị cả
(mà măi cho đến bây giờ, 52 năm sau, vẫn chưa biết các cô mấy tuổi)
thuộc loại hùng biện nên sau 1975 làm MC nhà nghề. Mấy đứa nhát gan như
Hoàng Thạch Tú, Lộng Chương gọi Giới bằng chị có lẽ v́ tâm phục, khẩu
phục bà chị này sao đó. Giới hiện đang ở San Jose, Hoa Kỳ. Tṛn là giai
nhân ít nói nhất, không hề làm mất ḷng ai, lúc nào cũng đúng giờ đúng
giấc rất “ra ǵ với núi sông”. Hiện Tṛn đang ở Sài g̣n và nghe nói rất
có duyên lành với cửa Phật. Tú, người có tên hay nhất – Vơ Thị Cẩm Tú –
là một người ăn nói nhỏ nhẽ, hay chia sẻ chuyện bốn phương với bạn bè.
Cuối đời, Tú ăn chay trường và đă nhẹ nhàng ra đi mấy năm về trước tại
nhà riêng ở gần Đập Đá.
Về phía nam giới th́ lớp Việt Hán 67-70 có cả thảy là 7 cụ: cụ Ban, cụ
Chương, cụ Hồi, cụ Hoài, cụ Tú, cụ Tường và tôi, cụ Đoàn.
Cụ Ban, Ngô Văn Ban, người xuất thân từ núi Thành (thành Diên Khánh,
Khánh Ḥa). Cụ theo môn phái nghiên cứu Văn hóa văn học dân gian cho nên
lúc nào cụ cũng vui vẻ “an bần lạc đạo” với bằng hữu. Sau ngày gác “kiếm
giấy” về hưu, cụ xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu về văn hóa văn học
dân gian được… bá tánh cùng giới khảo cứu ngưỡng mộ và thưởng thức rất
chi là quư trọng.

(Năm 2012, vợ chồng Kiêm Đoàn từ nước ngoài
về “du Nha Trang” gặp NVB sau 42 năm xa cách, lúc đó NVB vừa tṛn 70).
Theo thứ tự ABC, Chương là nhân vật thứ nh́ bị nhắc tới. Cụ Chương trẻ
nhất đám với cái tên “gươm đàn nửa gánh” là Lê Đ́nh Lộng Chương. Cụ
Chương hay cả thẹn. Gặp nàng Túy Ngọc là mặt đỏ bừng “ấp úng không ra
được nửa lời”! Cụ học giỏi nhất lớp, mới hết năm thứ nh́ th́ đă đỗ cử
nhơn tại đại học Văn khoa. Chương làm thơ rất ư vị: Đường-Mật-Tự-Do đủ
thể loại, hiện sống tại Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hồi, tên sử sách là Đỗ Trọng Hồi. Tên t́nh sử bị gọi là Nùng Xửng v́
chàng da bánh mật làm dân “ngẵng” trong lớp tưởng tượng như người Nùng
và thương sương khói cô bé con nhà mè xửng Song Hỷ. Hồi là người tử tế
nhất lớp, giúp bạn tận t́nh và nhẹ nhàng chẳng mất ḷng ai. Người tốt
thường đi sớm “… bất hứa nhân gian kiến bạch đầu” nên Hồi đă vĩnh viễn
xa bạn bè vào năm 2015. Tôi có làm một bài Điếu văn tiễn biệt bạn Hồi:

ĐIẾU VĂN
Thương tiếc bạn Đỗ Trọng Hồi:
Người bạn đồng môn Đại học Sư phạm Huế, khóa Phan Châu Trinh
(1966-1970); đồng hương Huế và đồng cảm trong tinh thần giải thoát của
đạo Phật.
Đă từ Sài G̣n về quê hương Long Thọ Huế lúc 12 giờ trưa và trở lại cơi
rỗng lặng hoàn không lúc 19 giờ ngày 2 tháng 7 năm 1915.
Hồi ơi!
Mùa Đông trên quê hương buồn lắm phải không
Chuyến xe trưa về Huế nao ḷng
Quê xưa kịp nói lời ly biệt
Cơi đi về không lại hoàn không
Nhớ Bạn xưa:
Thuở quê ḿnh khói lửa
Tuổi trẻ chợt già thân phận nước non
Sớm tụ, chiều tan, kẻ mất người c̣n
Cảnh dâu biển mơi ṃn chân ngựa đá
Thương bạn Đỗ Trọng Hồi
Một thời băo nổi:
Tuổi trẻ yêu quê hương đạn bom bốn hướng
Sách vở, trầm tư, lên lớp, xuống đường
Những ngày biến động đi qua Huế
Để lại đằng sau những tiếc thương
Nhớ ngày qua
Tuổi 20 mộng đời khai phá
Thư viện, giảng đường mơ áng kinh luân
Chọn con đường Sư Phạm Văn Chương
Bốn năm đèn sách
Đến lúc ra trường
Ngày Tốt Nghiệp
Khóa Phan Châu Trinh, tên người khai sáng
Giới, Diệp, Ban, Hồi, Tṛn, Cẩm Tú
Tường, Đoàn, Thạch Tú, Lộng Chương, Hoài
Bảy nam bốn nữ
Việt Hán toàn ban rộn tiếng cười
Ôi! Một thời…
Mới đó đă xa xưa
Thời những giáo sinh thành những giáo sư:
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”
Lời xưa c̣n đó
Mắt sáng ngời ḷng thoáng bóng thiên thư:
Bục giảng, học tṛ, tương lai, danh dự
Chia tay nhau hớn hở lên đường
Ngày vào đời
Những vùng trời quê hương
Với đàn em yêu thương
Nghiệp bụi phấn ngỡ không c̣n thay đổi
Mới nửa đời lịch sử đă sang trang
Bởi “sách vở ích ǵ cho buổi ấy”
(Cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa từng xót xa trông thấy)
Nên thầy, cô rời bục giảng, xa trường
Hỡi ôi!
Nghề nghiệp đa mang
Thân c̣ cơm áo
Thầy tṛ nh́n nhau lơ láo
Trường xưa, bạn cũ về đâu
Đứa xốc nổi vượt biên qua xứ khác
Đứa chậm chân c̣n ở lại bên cầu
Đứa khó, đứa giàu; đứa quan, đứa tớ
Cuối đời rũ áo t́m nhau…
Nhớ bạn xưa:
Lần cuối cùng hội ngộ
Năm tên Hồi, Tín, Nhẫn, hai Đoàn
Bên quán phở Sài G̣n
Cà phê buồn nhắc chuyện nước non
Tỉ tê bè bạn
Đứa đi tu thành tiên thành thánh
Chờ ngày đắc đạo công thành
Đứa giữ cháu giúp vợ hiền vặt vănh
Ăn chơi chờ chết… hoàn danh!
Đứa bệnh tật đếm từng ngày cuộc sống
Quỹ thời gian c̣n chút cặn mong manh
Như phim bộ mười chương mười tập
Đă vui buồn xem hết chín rồi a…
Thương thay…
Một cuộc Ta bà
Vô thường
Thổi hắt đèn hoa trận cười
Bạn hiền
Hết cuộc rong chơi
Công danh chi lắm
Cũng đời phù du
Tiễn nhau
Về với thiên thu
Th́ thôi
Bóng xế trăng lu
Cũng đành
Bạn ơi! Tương biệt:
Dẫu tương phùng là khởi điểm của chia ly
Và báo thân -- đất nước gió lửa – thôi đeo đẳng
Th́ thong dong ra đi
Hương linh vân du rỗng lặng
Và nhẹ nhàng
Không lại hoàn không
Sacramento, California 3-7-2015
Trần Kiêm Đoàn

. (NVB ghi chú ảnh: Ảnh do NVB chụp Trần
Hoài và Lê Nỡ tại cửa biển Thuận An, Huế năm 1970. Lê Nỡ, sinh viên khóa
Cấp tốc PCT, ban Pháp văn, người “không cao” khi đứnh cạnh “người cao”
Trần Hoài. Bạn Nỡ đă mất tại SG cách đây gần 20 năm và hiện nay được thờ
tại một ngôi chùa ở ngoại thành thành phố Nha Trang).
Chừ đến lượt điểm danh cụ Trần Hoài. Đây là nhân vật “tam nhất” của lớp:
Cao nhất, tên ngắn nhất và “Hán rộng Nôm cao” giỏi nhất lớp. Cụ Tam Nhất
nầy đỗ thủ khoa toàn khóa Phan Châu Trinh năm 1970. Tánh t́nh b́nh b́nh
không nóng, không lạnh nhưng sâu sắc và đáng tin cậy. Cụ Hoài Nhân hiện
là nhân vật duy nhất của lớp cố thủ Thành phố Huế.
Tú Xờm là phương danh của cụ ông Hoàng Thạch Tú. Xuất thân từ vùng Nem
Lụi Săi nên nói giọng Quảng Trị đẽo dẹo và tếu tếu tuyệt vời (good sense
of humor)! Cụ là học tṛ… ngoài Quảng vô thi nên một thời đào hoa phong
nhă ngầm với các giai nhân xứ Huế (phải chọc cho bà Tú ghen chơi!). Hiện
cụ Tú đang sống tại Đà Nẵng nhưng thường vói tay ngh́n trùng b́nh luận
trên các trang mạng xă hội xàng quanh thế giới duyên dáng, dễ thương và
thu hút vô cùng.
Và chót nhưng không chét (last but not less) là cụ Trần Đăng Tường.
Tường mảnh mai số một trong lớp nhưng giọng nói vang vang, nghịch nghịch
mà vui nhất lớp. Tôi và Tường thân nhau v́ đồng bệnh tương lân trong sự
nghiệp phá rối trị an của lớp. Đó là nhại thầy và chọc bạn. Cam đoan cả
trường đại học Huế xưa nay, chưa ai dám đội được cái mũ nỉ đen linh mục
của cha Nguyễn Văn Thích, giáo sư Hán học cả. Nhưng tôi và Tường đă từng
chờ Cha quay lưng là mượn tạm cái mũ của Cha chụp lên đầu và đi quanh
lớp. Thậm chí giả giọng hát của Cha trong điệu ca Huế dân gian và lời
giảng bài Trung Dung “Thành giả thiên chi đạo dă”. Chưa hết! Tôi cũng
hợp tác chặt chẽ với Tường trong các vụ đổi tên quư cô nương trong lớp.
Chúng tôi là đồng thủ phạm đổi tên bạn Tṛn, bạn Giới, bạn Tú…
Ngày gần cuối năm 1970, chúng tôi chia tay đi nhận nhiệm sở nằm rải rác
trên một địa bàn từ Quảng Trị đến B́nh Định, Tuy Ḥa, Khánh Ḥa. Đứa nào
cũng bùi ngùi khi xa Huế nhưng h́nh như không có ai bùi ngùi khi xa
nhau. Bốn Cô bảy Thầy thành mười một bạn trai hay bạn gái toàn ṛn,
nghĩa là suốt ba, bốn năm học ngày hai buổi với nhau mà lửa t́nh chưa hề
nhá giữa cặp cô cậu nào. Lớp Sư phạm Việt-Hán chúng tôi là thế đó. Ngày
hai buổi gặp nhau hồn nhiên như Eva và Adam thời chưa ăn trái cấm.
Hôm nay, một ngày mùa Đông cuối năm mưa dầm lạnh lẽo ở California, nhắc
lại lớp ḿnh ngày xưa mà cảm thấy mũi ḷng khi tưởng nhớ các giáo sư
thời sư phạm hầu như đă ra đi vĩnh viễn chẳng c̣n ai ở quê nhà. Nhớ bạn
Cẩm Tú và Trọng Hồi không c̣n nữa. Nhớ thầy Nguyễn Quới, thầy Nguyễn Đức
Kiên, Cha Nguyễn Văn Thích, cha Nguyễn Tiến Huynh, Thầy Nghè Lê Văn
Hoàng, Thầy Nguyễn Văn Tường… giờ đă thành “những người muôn năm cũ”.
Tại Mỹ hôm nay, có ba giáo sư đại học Sư phạm lớp chúng tôi là các bậc
cao niên c̣n tại thế: Thầy Đoàn Khoách, thầy Nguyễn Đăng Ngọc và thầy
Trần Quư Phiệt.
Năm 2020, kỷ niệm 50 năm ngày tốt nghiệp khóa Phan Châu Trinh năm 1970
đại học Sư phạm Huế. Năm nay, các bạn trong nhóm tổ chức quyết định làm
ngày kỷ niệm tại Huế trong dịp ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đầu tháng 4 Dương
lịch. Năm mươi năm, nửa thế kỷ, c̣n tồn tại trên ḍng đời để được gặp
nhau quả là một hạnh phúc hiếm hoi và chắt lọc của độ tuổi U-80 và U-90.
Một ḍng thời gian trôi xuôi và một chặng đời để sống. Ngoái lại đằng
sau là kỷ niệm; trông vời phía trước là tĩnh lặng hư không hay cũng chỉ
là những ước mơ trong ư niệm.
Dẫu muốn níu kéo hay xua đi th́ thời gian và ḍng đời vẫn đang đến và
đang qua. Biết lấy vô thường làm thường là nh́n được ánh sáng cuối đường
hầm của hạnh phúc. Trên “chuyến tàu hoàng hôn” đó, mỗi cuộc hội ngộ là
một mảnh đời vui sống nắm bắt được trong tay. Hà tiện với thời gian
nhưng phải hào sảng với cuộc đời để mai tê mỉm cười tự tại khỏi xăng
văng tiếc nuối ḿnh đă ra đi mà không bao giờ trở lại.
Sacramento, Cali những ngày cuối năm 2019
Trần Kiêm Đoàn
kư sự / hồi ức
|