PHƯỢNG VÀ SẮN
GIỮA SÂN TRƯỜNG
ĐỒNG-KHÁNH
Trần Kiêm Đoàn

"Gió sông Hồng gọi nắng sông Hương; như người
thương nhắn gởi người thương... !". Tiếng hát của Diệu Hoàng, một nữ sinh
lớp 12, vang vang và lưu lại trên từng lớp vôi hồng trường Đồng Khánh vào
những ngày c̣n ngỡ ngàng, nhưng đằm thắm của cái "thuở ban đầu" anh em Bắc
Nam mới sum họp.
Ngày đó, tôi là một
giáo sư dạy văn c̣n trẻ. Lư tưởng làm đẹp cho tuổi trẻ và quê
hương từng ấp ủ thoáng một chút ǵ hơi chao động và xôn xao
khi tiếp xúc với những đồng nghiệp "10+3" (hết lớp 10 học thêm
3 năm sư phạm để thành giáo sư trung học đệ nhị cấp) từ Quảng
B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nội... ba lô với nón cối, tai bèo
"chi viện" vào Nam làm công tác giáo dục. Cái khác giữa tôi và
họ không phải là chiếc xe Honda hay chiếc xe đạp phượng hoàng
Trung Quốc; cũng chẳng phải là bộ áo quần may đúng thời trang
hay quần áo quốc doanh. Cái khác miên trường dằng dặc là nề
nếp suy tư đă h́nh thành và tôi luyện trong hoàn cảnh xă hội
khác nhau giữa hai miền Nam Bắc.
Sân trường Đồng Khánh
những buổi sáng mùa Xuân sau 1975 vẫn có sương mù và nắng lụa
êm như nhung, nhưng những chao đảo câm nín của ḷng người làm
tôi bao lần có cảm giác như sách vở học tṛ lăng đăng vương
mang mùi thuốc súng. Chữ nghĩa không c̣n nằm im ĺm ép ḿnh
trong trang sách nữa mà nhảy múa như lằn đạn từ hai phía pháo
đài bảo vệ và tấn công. Những vần thơ không c̣n tự do bay lượn
theo những con phượng hoàng thi ca ngũ sắc ngày xưa nữa mà xếp
hàng đi vào cuộc đời: Thực tế, dạn dày và đầy lư tính.
Có lẽ trong cuộc đổi đời nầy, tôi không có duyên nợ
với thơ văn nên được làm trưởng ban lao động sản xuất của
trường Đồng Khánh, cùng với Hồ Hữu Hạnh, giáo sư Anh Văn và
Vĩnh Ba, giáo sư Toán làm phó ban. Lâu lâu có "Mệ Quế" tức là
Vĩnh Quế, giáo sư Lư Hóa, tăng cường cho đủ tứ nhân bang.
Lao động sản xuất là một môn học c̣n đầy khí thế lẫm
liệt hơn là các môn "mua Toán, bán Văn" trong thời đại mới,
nên t́m đủ việc hàng tuần cho mấy ngh́n học sinh các lớp đâu
có dễ ǵ hơn bàn kế hoạch phóng phi thuyền lên sao Hỏa. Mấy
tháng đầu, sân trường đă trở thành thực tế chiến trường cho cả
thầy tṛ làm lao động, nhưng đến khi cống rănh thoát nước cũng
đă có khoai sắn mọc lên la liệt th́ phải rủ nhau lên núi,
xuống ngàn mà lao động. Làm sao tôi quên được cây lệ liễu
trước bồn hoa văn pḥng Hieu trưởng và những cây phượng vĩ ở
sân trường đă mọc lên ở đó, đă chứng kiến những thế hệ học tṛ
tiếp nối ra đi. Giữa rừng dao rựa và cuốc xẻng trùng trùng của
các em học sinh giỏi môn học lao động tới mức "thà cuốc lầm
hơn bỏ sót", ban lao động chúng tôi phải bảo vệ từng gốc cây
phượng vĩ như bảo vệ từng phiến liêm sỉ của mỗi tấm ḷng trong
những tháng ngày găy đổ.
Cho đến khi kư hợp đồng với
Lâm Trường Tiền Phong để trồng mấy chục vạn cây thông và bạch
đàn trên núi Ngự B́nh, tôi vẫn không hiểu v́ sao bao năm qua
những ngọn núi b́nh phong của Huế vẫn chịu cảnh "Núi Ngự không
cây chim đậu đất...". Rồi đến những ngày dài thầy tṛ Đồng
Khánh trồng cây trên núi Ngự B́nh mà dù ai có vụng nhất cũng
trồng được năm mười cây trên những triền núi thấp. Núi th́ xa
mà gió rừng th́ mạnh, tôi chỉ sợ học sinh ḿnh bị lạc. Thầy cô
chủ nhiệm dắt một lớp đi đă khó, huống chi đem cả ngh́n học
sinh đi lao động.
Mấy ngh́n học sinh Đồng Khánh lao
động trên núi Ngự B́nh chưa có em nào bị lạc, nhưng toàn ban
lao động Đồng Khánh một thời đă "lạc" xa mù tận bên kia trời
một phương: Tôi lạc qua Cali, Hồ Hữu Hạnh lạc về Texas, Vĩnh
Ba lạc tới Colorado.
Mười năm sau tôi về lại lên núi
Ngự B́nh. Những cây thông nhỏ như chân chim sơn ca thuở nào
bây giờ đă lớn. Tàng cây xanh như mái tóc thề che phủ cả phong
sương. Tôi lặng lẽ ngồi dựa dưới bóng thông chiều. Mười năm
trước gió núi xao xác về thổi bay tóc mây của học tṛ, bây giờ
đă có những lá thông thay tóc mây ŕ rào với gió. Mười năm đếm
được trên những nhánh thông, nhưng bóng dáng cũ th́ vẫn c̣n
mường tượng trước mắt. Dáng xuôi ngược của anh Châu Trọng Ngô,
tiếng dậy rừng của Nguyễn Hữu Châu Phan, khuôn mặt nhễ nhại mồ
hôi của chị Lưu Ty, bàn tay trồng cây mà vẫn nhẹ nhàng quư
phái như chơi đàn nguyet của chị Bích Đào...
Chiều
nay, đă có những em bé nghèo đi hốt rác lá thông thấp thoáng
dưới chân đồi. Tôi nghe như c̣n tiếng ngâm thơ nhè nhẹ của
Nguyễn Đ́nh Niên, người thơ Đồng Khánh thường cho tôi vài điếu
thuốc vấn bằng giấy vở học tṛ mỗi lần đi lao động: "Hai đứa
nh́n nhau muối mặt buồn!". Buồn đến muối mặt như thơ anh là
nỗi buồn "ngàn lẫm liệt tan trong chiều ră ngũ" phải không
Tường Phong ?
Xong lên núi, ban lao động lại phải
xuống ngàn. Học tṛ Đồng Khánh, thế hệ giao thời của ba năm
cuối trung học - 1974-1977, chắc chưa ai quên chiến dịch Lao
Động Phong Sơn. Phong Sơn là vùng đất hoang tràm chổi phía
Trường Sơn gần Cổ Bi, Hiền Sĩ cách Huế khảng 30 cây số. Nhà
trường xin được chừng mười mẫu để trồng sắn. Thầy tṛ đi lao
động phải khăn gói dựng lều ở lại qua đêm. Ngày tiến công xuất
phát, khí thế như xuất quân. Mấy cô học tṛ Đồng Khánh đi lao
động trồng sắn mà giống như đi cắm trại ngoài trời. Cũng quần
chẽn, áo thun, mũ lát hoa; cũng bới theo trái cốc, ô mai...
thay v́ cơm mo cau, gạo ruột tượng, nước chè gừng. Đến hiện
trường, các cô bao khăn trên cán cuốc v́ sợ ḷng bong tay. Đến
khi lên vồng trồng sắn, thân cây sắn giống cắt ngắn, không
phân biết nổi đầu đuôi nên gần một phần ba học sinh trồng sắn
cắm gốc xuống đất chổng ngọn lên trời. H́nh ảnh Đồng Khánh lao
động sản xuất đă được (hay bị?) một thầy giáo Quảng B́nh nhận
xét: "Trông giống y như văn công ngoài ta đang biểu diễn!"
Thế nhưng sau ba bốn tháng cố "lấy sức người sỏi đá
cũng thành cơm", thầy tṛ Đồng Khánh đă thu hoạch được gần
mười tấn sắn. Thành tích lao động của trường Đồng Khánh được
ủy ban Thành phố và Ty Giáo dục khen ngợi không tiếc lời.
Nhưng chỉ có một "sự thật phũ phàng" mà mọi người không để ư
tới hay giả tảng lờ đi không biết tới là giá thành sản phẩm.
Mỗi cân sắn bán ra cho cán bộ công nhân viên nhà nước là 3 hào
rưỡi mà phí tổn sản xuất mỗi cân do ban lao động chúng tôi
tổng kết lại là khoảng 5 đồng. Cũng suưt soát hơn hai chục lần
lỗ vốn. Bởi vậy, một số học tṛ biết chuyện thường cười khúc
khích gọi đùa sắn Đồng Khánh sản xuất là "sắn sâm".
Sau những ngày dài với nắng sắn mưa khoai, ban lao
động lại lo chuẩn bị cho mùa tựu trường năm 1977. Hạnh th́ lo
điều động học sinh quét vôi lại cho trường, tôi th́ chăm chú
hướng dẫn học sinh trồng thêm những cây phượng vĩ ở sân trường
đă bị hư hao sau mấy tháng hè nắng cháy. Những gốc phượng đàn
em trồng xuống c̣n vun đất chưa xong, anh Phẩm, nhân viên của
trường đến mời tôi vào văn pḥng hiệu trưởng. Đất Đồng Khánh
c̣n bám vào mặt mày quần áo, mồ hôi c̣n nhễ nhại nhưng tôi
bỗng có cảm giác ớn lạnh khi thoáng thấy trong văn pḥng có đủ
hiệu trưởng, bí thư chi bộ và công an. Ông Vơ Bích, bí thư chi
bộ Đảng lạnh lùng trao cho tôi quyết định đuổi dạy. Chút sĩ
khí của con nhà theo ṇi sách vở réo gọi trong tôi là phải cố
thản nhiên và b́nh tĩnh, nhưng sao mồ hôi lạnh vẫn chảy ṛng
ṛng trong từng chân tóc và sống lưng. Bị đuổi dạy trong thời
điểm này không có nghĩa là khó khăn về cơm áo, nhưng đây là
một sự báo hieu bước khởi đầu cho con đường gian nan bất hạnh,
cho tiếng th́ thào của địa ngục, cho thân phận làm nguời giờ
thứ hai mươi lăm. Hai muơi năm sau nhớ lại chuyen cũ tôi thấy
thương ḿnh chi lạ. Thương v́ trong giây phút đó tôi chỉ xin
một ân huệ cuối cùng trước khi rời trường Đồng Khánh là xin
cho tôi được thêm ít phút nữa để giúp học sinh trồng cho xong
hàng phượng vĩ. Và, tôi đă bị khước từ!
Tôi vẫn nhớ
"sắn sâm" Đồng Khánh như một ư niệ-m ngồ ngộ về Phượng và Sắn
giữa sân trường nhưng chưa bao giờ được ăn thử. Ngày trước khi
mới bới sắn về th́ thầy tṛ chỉ mong có chén cơm trắng không
độn khoai sắn nên chưa ăn, mà măi khi đến xứ người th́ chỉ có
sắn Tàu hay sắn Thái. "Sắn sâm" ngỡ như đă trở thành huyền
thoại giống chuyện củ sâm ngh́n năm để luyen thuốc truờng sinh
trong chuyện kiếm hiep Tàu, ai ngờ cũng có một ngày đẹp trời
"sắn sâm" trở lại với tôi trên đất Mỹ làm khuấy động mặt hồ kư
ức tưởng như không c̣n vướng vất chuyện ngày qua.
Một
người học tṛ Đồng Khánh cũ qua Mỹ với chồng theo diện H.O và
t́nh cờ ghi danh vào học lớp ngôn ngữ do tôi phụ trách. Ngày
mồng một Tết con cọp năm nay nhằm ngày thứ Tư, nên tôi vẫn lên
lớp như thường lệ. Vài sinh viên Viet Nam vắng mặt đón Xuân.
Những sinh viên Mỹ cũng chỉ biết ngày thứ Tư là ngày có lớp
như mọi thứ Tư khác trong tuần. Thế thôi. Cuối giờ, cô sinh
viên cựu học sinh Đồng Khánh tặng cho tôi một món quà Tết nho
nhỏ với lời chúc "vạn sự như ư". Lên xe, mở quà ra tôi bỗng
cảm thấy vui như mùa Xuân khi đọc mảnh giấy nhỏ kèm với hai củ
sắn, bở trắng, phảng phất mùi lá dứa và hương cau. Miếng giấy
ghi: "Kính tặng thầy 'sắn sâm Đồng Khánh,' do ông xă em trồng
trong chậu.kiểng đó thầy". Tôi ăn củ sắn. Nếu sắn Đồng Khánh
ngày nào mà cũng ngon như thế th́ buôn một, lỗ ba mươi cũng
thật đáng đồng tiền bát gạo. Tay cầm miếng sắn, tay cầm vô
lăng, tôi lái đi trong gịng xe như gịng đời lao nhanh vun
vút trên xa lộ vô t́nh vào ngày Tết thiêng liêng. Sự dửng dưng
của phố xá quê người làm tôi thấy xót xa và nhớ quê nhà, nhớ
những kỷ niem đă thành chuyện kể. Dù vui như ngày Tết, hay
muối mặt buồn như hàng phượng vĩ và cũ sắn Phong Sơn giữa sân
truờng Đồng Khánh, tôi vẫn nhớ và ước mơ những cây phượng lưu
niên ở sân trường Đồng Khánh sẽ vững vàng hứng chịu tuyết
sương để nở hoa sưởi ấm tuổi học tṛ mỗi dịp Hè sang. Giờ đây,
chắc những củ sắn thôi mọc chung giữa sân trường phượng đỏ và
ước chi những củ sắn mọc lên tự tiềm thức cũng không c̣n.
Nghe đâu Nguyễn Khoa Diệu Huyền, cô bạn cũ một thời Vỹ
Dạ của tôi đang làm hiệu trưởng trường Đồng Khánh thay cho Lê
Huy Linh. Nếu đúng thế, tôi sẽ rất cảm ơn những người đă biết
thả mây về núi; thả những con hến Cồn câm nín nhưng mang cả
trời tâm sự vào nước mát sông Hương.
Trần Kiêm Đoàn
kư sự / hồi ức
|